Nghệ An có nhiều cơ sở và làng truyền thống đóng tàu thuyền: Trung Kiên, Áng Độ (Nghi Lộc), Lộc Châu, Vạn Lộc (Cửa Lò), Châu Hưng, Do Lễ (Hưng Nguyên), An Bình, Phú Nghĩa, Văn Thai (Quỳnh Lưu), Thanh Bích, Trang Thung (Diễn Châu). Ngày nay nhiều làng nghề đã bị bỏ quên, có làng nghề bị mất hẳn, nhưng cũng có nơi được khôi phục và phát triển, đó là làng đóng thuyền Trung Kiên.
                     													 													
 
 													
 													Làng Trung Kiên, xưa gọi là  													Hoàng Lao, cuối triều Nguyễn  													gọi là xã Trung Kiên thuộc  													tổng La Vân, huyện Hưng  													Nguyên; năm 1946 thuộc xã  													Đông Hải; 1954 cho đến nay  													thuộc xã Nghi Thiết, huyện  													Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Làng  													Trung Kiên nằm trong vùng  													“Địa linh nhân kiệt”: bên  													hữu có núi Hổ; bên tả là núi  													Rồng vươn dài ra tới biển.  													Núi Bảng sừng sững sau lưng;  													sông Cấm chảy ngang trước  													mặt đổ nước ra biển ở Cửa Xá  													(Cửa Lò). Làng Trung Kiên  													còn có nhiều di tích cổ như  													đình, đền, chùa, bia đá,…  													được tạo dựng từ thời Lê.  													Đền Trong thường gọi là đền  													Hoàng Lao thờ thần Cao Sơn,  													Cao Các, Sát Hải đại vương  													Hoàng Tá Thốn, và Quan Hậu  													(ông tổ của nghề đóng  													thuyền). Trên cửa chính của  													đền có hàng chữ Hán: “Cao  													minh quảng đại”. Đền còn có  													nhiều hoành phi, câu đối,  													tiêu biểu như:
 													Quốc tam bách tải quan  													thường tiết liệt tức kim  													truyền cổn phạ;
 													Hải thập nhị môn hương hỏa  													giang sơn đáo xứ trượng  													thiên thu.
 													Nghĩa là:
 													Mười hai cửa biển bốn mùa  													hương khói, núi sông lồng  													lộng thanh;
 													Ba trăm năm sau danh tiếng  													để lại, xưa nay ngưỡng vọng.
 													Chùa Trung Kiên được dựng từ  													triều Lê Hy Tông, do công  													phần lớn của vợ chồng ông tổ  													nghề đóng thuyền Trung Kiên  													tên là Nguyễn Quý Công.  													Nguyên ông bà không có con  													nối dõi nên đã cống hết tiền  													bạc, gia sản cho việc công  													đức của làng: dựng đình, xây  													chùa, giúp nhà nghèo, nên  													khi mất ông được dân tôn thờ  													gọi là Quan Hậu. Bia Trung  													Kiên “Cổ thần bi ký” có thân  													hình họpp 4 mặt, làm bằng đã  													cẩm thạch từ thời Chính Hoà  													(1690). Mộ ông tổ nghề đóng  													thuyền Trung Kiên, lễ hội  													làng Trung Kiên… cụm di tích  													đền, đình, chùa Trung Kiên  													nằm ở khu trung tâm làng,  													dọc theo chân núi Rồng, có  													xưởng đóng thuyền, cư dân  													đông đúc, thuyền bè qua lại,  													sông nước hữu tình.

 													Nghề đóng thuyền ở Trung  													Kiên có cách đây hơn 700  													năm, nhưng trở thành phường  													- làng đóng thuyền nổi tiếng  													phải kể từ thời Lê (hơn 500  													năm). Vua Lê Thánh Tông đã  													cho lập hạm đội hải binh lớn  													nhất nước tại Cửa Lò, làm  													căn cứ để bảo vệ biên giới  													phía Nam và xuất quân đi  													bình định phương Nam. Thái  													Uý, Nhập nội, Phò mã Nguyễn  													Sư Hồi, con trai đầu của  													Cương quốc công Nguyễn Xí  													được cử chỉ huy hạm đội cùng  													với chức vụ trấn thủ thập  													nhị hải môn (trấn vùng 12  													cửa biển nước ta). Tàu  													thuyền và quân đội đóng dọc  													theo sông Cấm, mà ngày nay  													các nơi liên quan còn được  													gọi là sông Cấm, núi Cấm,  													cầu Cấm. Làng Hoàng Lao nằm  													trong vùng căn cứ này, nên  													người thợ được trưng dụng để  													đóng và sửa chữa tàu thuyền  													cho quân đội. Đồng thời với  													thợ Hoàng Lao là nhiều tốp  													thợ ở các nơi khác từ ngoài  													Bắc được trưng dụng vào, đã  													tạo điều kiện cho thợ Hoàng  													Lao học hỏi thêm kinh nghiệm  													và nâng cao tay nghề của  													mình. Từ những người thợ nổi  													tiếng của Hoàng Lao đã xuất  													hiện một tài hoa, có công  													lớn với vua Lê và được dân  													thợ tôn thờ thành ông tổ  													nghề đóng tàu thuyền của  													làng Trung Kiên. Đó là ông  													Nguyễn Quý Công (4) với tích  													xưa còn kể lại:
 													“Một lần có đoàn thuyền vua  													Lê vào phương Nam đến xứ  													Nghệ. Thuyền rồng nhà vua  													theo hướng sông đi thị sát  													tình hình Nghệ An. Không ngờ  													năm ấy hạn hán kéo dài, nước  													sông có đoạn bị cạn, thuyền  													rồng lỡ vào, không thể đi  													tiếp mà kéo trở lại cũng  													không được (5). Nhà vua cho  													quan quân đi rao truyền  													trong dân gian, mong tìm  													được ngưòi có mưu kế tài  													giỏi để đưa thuyền quay trở  													lại ra biển! Tin đến Hoàng  													Lao! Người thợ đóng thuyền  													trẻ tuổi họ Nguyễn xin ra  													mắt nhà vua và hiến kế.
 													Cảm mến tài năng của chàng  													họ Nguyễn, vua Lê đã ban  													thưởng tiền bạc và mời về  													kinh giao cho phụ trách cơ  													xưởng đóng tàu thuyền. Chàng  													trai đã cảm tạ nhà vua và  													xin cho được ở lại nơi quê  													cha đất tổ để tiếp tục làm  													người thợ đóng thuyền cùng  													dân làng của mình. Nhà vua  													rất cảm kích chí nguyện của  													chàng trai trẻ, đã truyền  													lệnh ban thêm tiền bạc và  													giao cho chàng trách nhiệm  													lập một trang trại đóng  													thuyền cho triều đình tại  													Hoàng Lao.
 													Bia Hậu thần Trung Kiên cho  													biết:
 													“Vào năm Bính Thìn  													(1676) mới bắt đầu dựng trại  													đóng thuyền. Đã đóng được 6  													chiếc…”
Kể từ đó, tiếng tăm  													của thợ đóng thuyền Hoàng  													Lao - Trung Kiên càng được  													lan truyền đi xa. Nhà vua  													luôn luôn đòi thợ ở đây về  													để đóng thuyền. Ngày nay  													nhiều thư tịch cổ còn cho  													biết về tình hình đóng tàu  													thuyền cho Nhà nước ở Nghệ  													An và việc điều thợ đóng  													thuyền Nghệ An, trong đó thợ  													Trung Kiên đi làm ở các nơi  													khắp cả nước:
 													- “Gia Long 6 (1807): sai  													bọn Tham trị công bộ là  													Nguyễn Đức Huyên và Hoàng  													Kiêm Điến, Vệ uý thủy quân  													là Phạm Văn Tường đi Nghệ An  													đốc suất chế tạo 100 chiếc  													thuyền ô”(6)
 													- “Minh Mạng 3 (1820): Vua  													dụ rằng: Nghệ An là nơi sản  													xuất ra gỗ, thợ thuyền lại  													nhiều, khi cần dễ đòi bắt.  													Nay ra lệnh cho tỉnh ấy đóng  													một thuyền bọc đồng nhiều  													dây, gọi là thuyền hiệu Điềm  													Dương (dài 6 trượng 7 thước,  													rộng 1 trượng 5 thước 3 tấc,  													sâu 1 trượng thước 9 tấc 5  													phân), làm xong giải về kinh  													nộp”(7)
 													- "Thiệu trị 1: Lại khởi  													công đóng thuyền Tế Xuyên,  													thuyền Hòa Lạc mỗi thứ một  													chiếc... Thuyền Hòa Lạc  													nguyên ở tỉnh Nghệ An khởi  													công rồi kính nộp"(8)
 													-“… Và ngày 12 tháng này,  													tiếp tỉnh thần Nghệ An, đệ  													một vản sách tấu về việc chế  													tạo thay thế 3 chiếc hải vận  													- thuyền kiểu cũ, đều đã  													hoàn thành và có vâng chỉ  													vật liệu, xin kê khai sự chi  													tiêu…” (Tờ tấu Tr.34-35,  													Châu bản tập số 128, ngày  													14-11 năm Tự Đức 14)(9)
 													Châu bản tập số 315 ngày  													14/4 Tự Đức 32 (1870), cũng  													cho biết việc vua Tự Đức  													giao cho các tỉnh Hà Nội,  													Nam Định, Hải Dương đem bạc  													đến Nghệ An để đóng các loại  													thuyền trong đó Hải Dương có  													12 chiếc gồm 3 ô thuyền, 3  													chiến thuyền, 2 trường long  													thuyền và 4 khoái thuyền…
 													Những tư liệu trên đã chứng  													tỏ nghề đóng tàu thuyền ở  													Nghệ An đã đạt đến trình độ  													cao. Các xưởng đóng tàu  													thuyền ở Nghệ An, trong đó  													có Trung Kiên đã đảm đương  													được việc đóng các con  													thuyền cỡ lớn. Tàu thuyền do  													Nghệ An đóng đã từng được  													các triều vua ca ngợi là bền  													đẹp và chắc chắn, như năm:
 													“Thiệu Trị 3, chuẩn y lời  													tấu rằng: Nghệ An đóng xong  													2 chiếc thuyền Tuần dương,  													xét nghiệm thấy đều bền  													chắc, cần phải khen thưởng…  													Còn thuyền làm việc chiếu  													theo nếu công việc nhiều thì  													thợ đầu cánh thưởng 2 quan  													tiền, các thợ bạn đều thưởng  													1 quan 5 tiền…”(10)
 													Nghề đóng thuyền làng Trung  													Kiên làn nghề cổ truyền  													trước đây chủ yếu làm theo  													phương pháp thủ công, lao  													động kỹ thuật ít. Bước sang  													thời đại mới, đòi hỏi kỹ  													thuật ngày càng cao, như  													phải đóng tàu thuyền có thể  													đi xa, có gắn máy với công  													suất lớn… thì người thợ  													Trung Kiên đã nhanh chóng  													tiếp thu khoa học kỹ thuật  													mới, cùng với kinh nghiệm  													truyền thống, đã đóng được  													tàu thuyền đáp ứng với yêu  													cầu của khách hàng.
 													Đến nay, để thích ứng với cơ  													chế thị trường, các ông chủ  													mới của làng Trung Kiên đã  													đứng ra tự lập tổ hợp đóng  													tàu thuyền. Cả xã Nghi Thiết  													đã xuất hiện 13 tổ hợp đóng  													tàu thuyền lớn nhỏ. Hàng  													năm, các tổ hợp này đóng  													được chừng 200 chiếc thuyền  													các loại. Thuyền nhỏ như:  													thuyền te, thuyền lưới,  													thuyền giã, thuyền câu,  													thuyền gõ (dài khoảng  													12-13m), thuyền đánh cá  													(khoảng 25-50 tấn). Tàu  													thuyền lớn, mũi đứng lắp từ  													1-3 máy (60 mã lực), tàu xa  													bờ (150-200 mã lực)… Tàu  													thuyền do thợ Trung Kiên  													đóng đảm bảo về mặt kỹ  													thuật, lại bền, đẹp nên có  													nhiều khách hàng trong tỉnh  													và các nơi khác như Quảng  													Ninh, Móng Cái, Hải Phòng,  													Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng  													Bình, Đà Nẵng, Vũng Tàu v.v…  													đặt đóng.
 													Tàu thuyền gỗ do thợ Trung  													Kiên đóng đã được Nhà nước  													công nhận và một số đã được  													lấy làm mẫu dân gian cho  													nhân dân hoạt động nghề cá  													như:
 													- Loại có ký hiệu C5-T11-E  													thuyền buồm đánh cá, vận tải  													có gắn máy, mặt đuôi phẳng,  													múi lồi, một buồm tứ giác,  													dài 8-12m, rộng 3.5-4m, mớn  													nước 0.9m, trọng tải 5 tấn.
 													- Loại tàu trọng tải 30 tấn,  													dài 17m, rộng 5m, cao 2m,  													mũi thuyền cao 4.6m v.v…
 													Một xưởng đóng tàu thuyền  													của tổ hợp ở Trung Kiên hiện  													nay tối thiểu cũng có lúc có  													thể đóng được từ 3 - 5  													thuyền. Xưởng rộng chừng 15  													- 20m, dài 20m, một năm có  													thể xuất từ 15 - 20 tàu  													thuyền, tốp thợ thường xuyên  													lao động là 10 đến 50 người.
 													Để đóng một tàu thuyền trọng  													tải 50 tấn, phải cần đến  													nguyên vật liệu và tiến vốn  													như sau: 50 khối gỗ các  													loại, trong đó: sến (nhóm 2)  													20 khối, săng lẻ (nhóm 3) 20  													khối, gỗ dẻ, dổi, tạp… (nhóm  													4) 10 khối, đinh sắt 2 tấn,  													hết khoảng 1300 công thợ,  													giá thành từ 150 đến 200  													triệu đồng.
 													Khi đóng tàu thuyền gỗ,  													trước hết phải căn cứ theo  													các bản vẽ chế tạo bộ xương  													của tàu. Dựng xong bộ xương  													đã dựng nên (xem bản mẫu  													thiết kế tàu thuyền từ 15  													tấn đánh cá của ông Nguyễn  													Trung Thiết, chủ một tổ hợp,  													nguyên Phó chủ nhiệm HTX  													đóng tàu thuyền Trung Kiên
 													Thuyền gỗ gồm các bộ phận  													chính như sau:
 													- Sống chính ngoài, còn gọi  													là Long Cốt, Ky, La Ký hay  													sống dưới đáy.
 													- Gỗ ốp sống chính: Long cốt  													giã, thanh đệm sống đáy.
 													- Cong gian có: cong đáy,  													cong hông, cong đứng còn gọi  													là đà, cong giang, sườn.
 													- Sống dọc đáy: sống tử phụ,  													thanh dọc đáy.
 													- Cánh sống chính, còn gọi  													là sống nằm, ky nằm.
 													- Sống dọc hông, dọc mạn,  													dọc nách, ván bia boong (ván  													mép boong, lá mái), thanh  													chống va (tài cán), sống mũi  													(lô mũi), sống đuôi (lô  													lái), ván vỏ hay gọi là ván  													bao v.v…
 													Bí quyết trong đóng tàu  													thuyền gỗ để có độ bền chắc  													và đạt tiêu chuẩn kỹ thuật  													cao là:
 													- Sống chính ngoài phải là  													một cây gỗ hoàn chỉnh, càng  													dài càng tốt, được cây gỗ  													dài 13 - 14m là rất quý, nếu  													phải nối thì mồi nối phải  													tránh chỗ bệ máy và hai đầu  													miệng khoang, kiêng nối  													nhiều đoạn (3 đoạn trở lên).
 													- Sống chính trong phải chạy  													dài từ mũi đến lái, nối liền  													với các kết cấu xung quang  													sống mũi, sống đuôi.
 													- Cong gian: gỗ cong gian có  													góc tròn, phải dùng các gỗ  													cong thiên nhiên. Nếu thiếu  													gỗ cong phải dùng nhiều khúc  													nối lại với nhau, nhưng phải  													tránh gỗ ngang thớ. Hai cánh  													cong gian phải làm bằng cùng  													một loại gỗ để trọng lượng  													phân bố đồng đều, tàu thuyền  													khỏi bị nghiêng ngang.
 													- Ván bọc (vỏ thuyền) để  													ghép dọc theo khung tàu  													thuyền đòi hỏi phải cong  													hình vỏ đỗ và vặn ốp lên cả  													hai đầu mũi và đuôi thuyền,  													do đó phải dùng phương pháp  													đốt lửa hơ nóng gỗ và uốn ép  													gỗ khá đặc biệt. Đây là công  													khá phức tạp, đòi hỏi tài  													năng song người thợ đóng  													thuyền Trung Kiên làm rất  													giỏi.
 													Sau khi lắp ghép xong các bộ  													phận và vỏ tàu thuyền, phải  													bào sửa để đảm bảo bộ cong  													đều và nhẵn. Tất cả các bộ  													phận lắp ghép, khe rãnh, ke  													hỡ, vỏ đều phải được xảm  													trét kỹ bằng sợi phoi tre  													trộn luyện với hố vôi hàu,  													dầu, nhựa thông pha chế theo  													đúng liều lượng qui định.  													Các đầu bu lông, đinh đều  													được quấn túp luyện với hồ  													hoặc bịt bằng nhựa đường  													nóng chảy rót vào.
 													Tàu thuyền sau khi xảm xong  													thì ít nhất cũng phải thui  													đốt phần vỏ tàu từ mớn nước  													trở xuống. Trước kia tàu  													thuyền gỗ được thui đốt bằng  													bổi, lá thông… một tháng 1  													lần. Nay người ta không thui  													đốt nữa, mà dùng sơn đặc  													biệt chồng hà để sơn (một  													năm sơn 1 lần). Việc sơn vỏ  													thuyền chống hà được tiến  													hành cách 2 giờ trước khi hạ  													thuỷ tàu thuyền xuống nước,  													nếu sơn sớm hơn thì sẽ kém  													tác dụng
 													Hạ thuỷ tàu thuyền: con  													thuyền được chuyển từ những  													căn gỗ xuống ngồi trên máng  													trượt và đà trượt để chuẩn  													bị hạ thuỷ. Đà trượt là các  													thanh ray vuông bằng gỗ tốt,  													đủ chiều dài của con thuyền.  													Phân đuôi thuyền được bố trí  													cho trượt xuống nước trước  													vì phần đuôi “béo hơn” phần  													mũi thuyền, sức nổi tằng lên  													khi xuống nước làm cho thân  													thuyền nhanh chóng nổi lên.  													Khi hạ thuỷ, người ta đánh  													bật nêm ra, máng trượt được  													thả tự do sẽ trượt trên đà  													trượt có bôi trơn bằng mỡ  													công nghiệp, đem theo con  													thuyền xuống nước chỉ trong  													vài giây. Ngày hạ thuỷ con  													thuyền và chủ hộ hợp đều có  													làm lễ cúng âm binh trước  													khi tiến hành công việc vào  													ngày giờ tốt lành. Đặc biệt  													ngày giờ hạ thuỷ còn thuyền  													còn phải chọn theo con nước  													sinh, để thuyền xuống nước  													được dễ dàng, thuận lợi.
 													Để ghi nhớ về truyền thống  													tốt đẹp của làng nghề cũng  													như về ông tổ của nghề đóng  													thuyền, làng Trung Kiên  													thường tổ chức lễ hội lớn  													vào các ngày 5/1 và 10/7 âm  													lịch hàng năm.
 													Hội đua thuyền thường được  													tổ chức vào năm được mùa  													hoặc có các sự kiện quan  													trọng của làng nước, vào dịp  													tết khai hạ hay tết Nguyên  													đán. Thuyên đua là loại  													thuyền nhỏ, dài do làng tự  													đóng lấy, có trang điểm đầu  													rồng, phượng, ngựa… màu sắc  													sặc sỡ. Thuyền đua ít là 2 -  													4 chiếc, nhiều là 5 - 8  													chiêc để các hội, giáp trong  													làng đua với nhau. Có năm tổ  													chức rộng, mời thuyền đua từ  													Cửa Hội, Vạn Lộc đến để thi  													tài.
 													Làng nghề đóng thuyền truyền  													thống Trung Kiên, sau một  													thời gian bị lãng quên, nay  													đã khởi sắc trở lại. Đặc  													biệt là sau khi có chủ  													trương phát triển các phương  													tiện đánh bắt xa bờ ở Nghệ  													An, thì các xưởng đóng  													thuyền được mở rộng để đáp  													ứng đóng nhiều tàu thuyền có  													sông suất lớn. Tuy vậy, làng  													nghề đang gặp rất nhiều khó  													khăn. Các tổ hợp phát triển  													tự phát, thiếu tính quy  													hoạch định hướng. Bến bãi  													nhỏ bé, không thể đầu tư  													chiều sâu, khó đáp ứng được  													chỗ làm cho người lao động.  													Người lao động ở phải đi làm  													thuê ở nhiều nơi khác. Các  													tổ hợp hầu như chỉ có giấy  													phép kinh doanh mà không có  													giấy phép chế biến lâm sản,  													nên phải mua gỗ chui từ  													nguồn trôi nổi trên thị  													trương, giá cả thất thường,  													phát sinh giá so với giá hợp  													đồng. Mặt bằng và độ sâu  													luồng lạch chưa đảm bảo cho  													việc đóng tàu thuyền lớn,  													cần được đầu tư kinh phí để  													khai thông… Nếu được Nhà  													nước quan tâm đầu tư kinh  													phí, chỉ đạo đúng hướng, tạo  													điều kiện để các tổ hợp phát  													triển… chắc chắn làng nghề  													đóng tàu thuyền truyền thống  													Trung Kiên sẽ ngày càng phát  													đạt và tiến xa hơn nữa.